1. CHÙA HỘI LINH
Phường An Thới, quận
Bình Thủy, thành phố Cần Thơ
----------------------------
Chùa Hội Linh, còn có cách gọi
khác Hội Linh Cổ Tự, thuộc hệ phái Bắc tông - tọa lạc trên diện tích 6500m2
tại số 314/36 đường Cách mạng tháng Tám (cách
đường khoảng 200 mét), phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần
Thơ. Điện thoại số 0710 2212206. Hiện nay, do Hòa thượng Thích Chơn Đức làm trụ
trì.
Chùa Hội Linh
I. LỊCH SỬ HÌNH
THÀNH NGÔI CHÙA. (1)
Chùa Hội Linh được khởi lập vào
ngày rằm tháng hai năm Đinh Mùi – 1907, theo dòng Thiền Lâm Tế. Do một gia đình
phật tử - ông Phạm Văn Bường (pháp danh
Thông Lý) và bà Nguyễn Thị Tám (pháp
danh Thông Ngọc) cúng dường đất cho Hòa thượng Thích Khánh Hưng, thế danh
Quý Thanh Hương đứng ra trông coi xây cất. Ban đầu chùa được cất đơn sơ bằng
cột cây, vách và mái lợp lá, cửa chùa quay ra hướng (Đông Bắc) sông Hậu, đặt tên “Hội Long Tự”. Vì chùa nằm ở ngọn một
con rạch nhỏ, nên còn có tên là chùa Xẽo Cạn. Vị trí chùa trên một diện tích
đất khá rộng gần 1ha ở địa phận thôn Thái Bình, tổng Định Bảo (thời Pháp thuộc); đến năm 1958 đổi lại
thành xã An Bình, tổng Định An, quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh; năm 1968 đổi
thành phường An Thới, tỉnh Cần Thơ; sau ngày 30/4/1975 đất nước thống nhất được
đổi thành phường Bình Thủy, thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang; đến năm 1992
được đổi lại phường An Thới, thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ; Và hiện nay tọa
lạc tại số 314/36 đường Cách mạng tháng Tám, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình
Thủy, thành phố Cần Thơ.
Hòa
thượng Thích Khánh Hưng trụ trì chùa từ ngày khởi lập đến ngày mùng 5 tháng 3
năm Giáp Dần – 1914 viên tịch. Sau khi Hòa thượng Khánh Hưng mất, Hòa thượng
Thích Hoằng Đạo, thế danh Võ Văn Nhuận sinh năm Mậu Dần – 1878 thay thế trụ trì
cho đến ngày mùng 7 tháng 6 năm Nhâm Tuất – 1922 thì thâu thần thị tịch, hưởng
dương 45 tuổi. Mặc dù thời gian trụ trì chùa chỉ 8 năm, nhưng hòa thượng Khánh
Hưng là người được bà con phật tử tin tưởng. Theo 2 bảng khắc gổ còn lưu tại
chùa, ghi công đức của 75 thiện nam, tín nữ phật tử đồng hỷ cúng 2078 đồng, để
hòa thượng xây cất mới ngôi chùa bằng vật liệu kiên cố - tường gạch mái lợp
ngói. Mặt tiền chùa được điều chỉnh quay ngược lại về phía đường Cách mạng
tháng Tám, hướng Tây Nam
và đổi tên thành “Hội Linh Cổ Tự”.
Năm
1922, Hòa thượng Thích Trí Đăng, thế danh Lê Kim Chương sinh năm Bính Tuất –
1886 về trụ trì chùa cho đến năm 1944 chuyển đi tu nơi khác.
Năm
1944, Thượng tọa Thích Pháp Thân, thế danh Dương Văn Đề sinh năm Quí Mảo – 1903
thay thế trụ trì chùa cho đến ngày 18 tháng 8 năm 1970, Hòa thượng (được tấn phong ngày mùng 4 tháng 8 năm 1967
và được Giáo hội Phật giáo tỉnh Phong Dinh bấy giờ suy tôn Hòa thượng chứng
minh của Giáo hội) Thích Pháp Thân đã hy sinh vì sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ xâm lược, thọ thế 68 tuổi.
Trong
thời gian trụ trì chùa từ năm 1944 đến 1970, Hòa thượng Thích Pháp Thân có 2
quyết định quan trọng liên quan đến làm thay đổi diện mạo ngôi chùa.
|
Gian cổ lầu thờ Di Đà
Tam Tôn
HT. Thích Chơn Đức |
Kế tiếp sự truyền thừa. Năm 1972, Thượng
tọa Thích Chơn Đức (đệ tử Hòa thượng
Thích Pháp Thân) thế danh Phan Văn Bảy, sinh năm Ất Sửu – 1925, nguyên quán
Long Tuyền, Bình Thủy, Cần Thơ. Thay sư
thúc của mình giữ chức trụ trì chùa, đến năm 1998 Thượng tọa Chơn Đức được Giáo
hội Phật giáo Việt Nam tấn phong Hòa thượng và tiếp tục trụ trì chùa cho đến
hết năm 2005.
Thượng tọa Thích Thiện Pháp, sinh
năm Ất Mùi - 1955, thế danh Trương Hớn Huy người ở quận 4, thành phố Hồ Chí
Minh. Xuất gia năm 1965, được Hòa thượng Thích Tâm Chơn nhận làm đệ tử, tu học
tại chùa Thiên Long, xã Tân Hội, huyện Châu Thành, Tiền Giang. Năm 1966, được
bổn sư Hòa thượng Tâm Chơn gởi sang chùa Hội Linh nương với Hòa thượng Pháp
Thân học đạo cho đến ngày Hòa thượng viên tịch (1970). Sau khi hoàn tất phần Bảo tháp cho Hòa thượng Pháp Thân yên
nghỉ, Thượng tọa Thiện Pháp xin trở về bổn tự Thiên Long tiếp tục rèn luyện gia
công gia hạnh với Hòa thượng bổn sư nơi tự viện và vân du tham học với nhiều
Chư Tôn Đức trong những mùa An Cư Kiết Hạ… cho đến tháng chạp năm 2005 được Hòa
thượng Chơn Đức cử làm trưởng tử và chuyển về chùa Hội Linh nhận trách nhiệm
điều hành phật sự do Hòa thượng Chơn Đức giao phó cho đến nay.
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA CHÙA HỘI LINH.
Ngôi Tam bảo Hội Linh Cổ Tự ra đời
đến nay đã hơn một thế kỷ (102 tuổi) và tính từ đời Hòa thượng khai sơn đến Hòa
thượng Thích Chơn Đức là 5 đời. Mặc dù vậy, Chùa Hội Linh chưa phải là một ngôi
chùa cổ. Mặt khác, khi xây dựng lại mới vào khoảng 1955 – 1960, nên có ảnh
hưởng nhiều đến lối kiến trúc nước
ngoài.
Cổng chùa Hội Linh
Nhìn từ ngoài vào ta bắt gặp cổng
tam quan vừa hiện đại vừa cổ kính, dưới tán 2 cây đa cổ thụ rợp bóng, dãy tường
rào tạo hình cánh cung, cổng chính vươn ra phía trước, trên nóc các cổng đều được
lợp mái cong giả ngói âm dương màu xanh. Mổi cổng đều có 2 câu đối bằng chữ Hán
đắp nổi. Riêng cổng chính lợp 2 lớp mái ngói, nóc có gắn cặp lưỡng long tranh
châu bằng đất nung màu xanh, hai bên trụ cột có 2 câu đối bằng chữ Hán dịch
nghĩa như sau:
Linh minh thánh cảnh tam thiên đại
giác nhiệm Như Lai”
Sau
cổng chính, những cây dương liễu rũ nhánh soi bóng dưới cái ao sen hình bán
nguyệt rộng khoảng 25m2, giữa ao tôn tượng đài lộ thiên Quán Thế Âm
Bồ Tát cao gần 3 mét. Cổng trái là lối đi chính vào chùa. Bên trái có Bảo tháp
to cao hơn 10 mét, là nơi yên nghỉ của cố Hòa thượng Thích Pháp Thân. Nhìn vào
sâu bên trong có thêm Bảo tháp cao hơn 8 mét là nơi yên nghỉ của cố Hòa thượng
Thích Hoằng Đạo và 2 tháp nhỏ của Hòa thượng Khánh Hưng, Hòa thượng Trí Đăng.
Bên phải là một khoảng sân khá rộng, trên sân có miếu Ngũ Hành bên trái, Thổ
Thần bên phải, ở giữa trồng nhiều hoa kiểng và nhiều chậu cây bonsai sum sê tạo
một không gian an lành.
Tượng Quán Thế Âm lộ
thiên
Phía trước
mặt ngôi chánh điện phần trên là ba gian cổ lầu, mỗi gian chiều ngang 4 mét với
chiều cao hơn 12 mét, trên lầu tôn thờ 3 pho tượng đứng, ở giữa Đức Phật A Di
Đà, bên phải tượng Đại Thế Chí Bồ Tát, bên trái tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. Trên mái
chia làm 3 nóc được lợp bằng vật liệu xi măng đúc thành hình vảy cá, nóc giữa mái
tạo dáng tròn cạnh lục giác, trên đỉnh là hình búp sen, các đầu đao gắn cách
điệu dây lá; 2 nóc hai bên đỉnh là bầu rượu, mái tạo hình phẳng cạnh tứ giác
uốn cong lên, các đầu đao cũng gắn cách điệu dây lá (phần kiến trúc này đều do sự khởi ý chuẩn bị của HT. Pháp Thân và
HT.Chơn Đức là người thực hiện hoàn thành vào năm 1972). Phần dưới, ở giữa
2 cửa ra vào chách điện còn an trí thêm tượng Đức Phật A Di Đà.
Điện thờ chính ở giữa, phía trước
có khung bao lam chạm khắc tuyệt mỹ cây, hoa, lá, rồng, phụng, hưu… sơn son
thếp vàng, hai bên có 2 câu liễn đối:
“Phật nhựt tăng huy tự hán vĩnh bình đoan tại thử, Pháp luân thường chuyển duy
đường trinh quán đạo vưu thâm”. Bên trong an trí Đức A Di Đà Phật ngồi trên
tòa sen cao 1,5 mét. Phía trước hai bên tôn 2 tượng đứng ông Thiện - ông Ác, ở
giữa tượng Đức Địa Tạng cởi Kỳ Lân. Bậc dưới tôn tượng Đức Thích Ca Đản Sanh, 2
bên xếp 2 chân đèn và hoa, quả. Bàn phía dưới trước điện an trí tượng Đức Phật
Thích Ca Niết Bàn chiều dài 1,5 mét, 2 đầu bàn xếp chuông mõ; Điện bên trái, an
trí Đức Đại Thế Chí Bồ Tát thếp vàng, 2 bên đặt 4 tượng đứng 4 vị thần Kim
Cang. Phía trước tôn tượng Ai Đà tiếp dẫn, 2 bên 2 tượng phán quan. Trên tủ thờ
trước điện đặt tượng Quan Thánh chúng ngồi; Điện bên phải, an trí Đức Quán Thế
Âm Bồ Tát thếp vàng, 2 bên 4 vị thần Kim Cang. Ở giữa đặt 2 tượng trong 10 vị
thập điện và 2 tượng nhỏ 2 vị phán quan, phía trước có 1 tượng nhỏ Đức Địa Tạng
đứng. Trên tủ thờ trước điện còn có thêm 2 tượng nhỏ Đức Phật Thích Ca ngồi.
Ngoài ra 2 cột hai bên còn có 2 câu liễn đối: “Thiên đường chánh tu ốc lậu đổ thanh thiên, Địa ngục vô môn chỉ vị thốn
tâm đa ám địa”.
Ở giữa chánh điện tôn pho tượng
Đức Phật Di Lặc Bồ Tát ngồi thật to, cao 2,5 mét. Phía sau lưng Đức Di Lặc là
tháp đèn Dược Sư có 49 ngọn đèn (đèn bóng
có tim đốt bằng dầu lửa thắp suốt ngày đêm). Tháp đèn được gia công bằng
danh mộc quý gồm 7 tầng, mỗi tầng 7 ngọn đèn được nâng bằng 7 long mộc và mỗi
tầng đều có một Đức Phật dược sư an ngự. Phía sau tháp đèn là một khoảng trống
nơi hành lễ của sư trụ trì.
Đức Di Lặc ngồi cao 2,5
mét
Đối diện tượng Phật Di Lặc là bàn
thờ Đức Phật Thích Ca Mầu Ni ngồi trên tòa sen, bên dưới có tượng Ngọc Hoàng ở
giữa, hai bên tượng Nam Tào, Bắc Đẩu và 2 tượng đứng Đức Hộ pháp, Tiêu diện Đại
sĩ
Phía sau điện thờ chính là gian
thờ Hậu Tổ. Ở giữa, đặt tượng thờ Đức Tổ Sư Lạc Ma và ghi 4 chữ “Truyền đăng
tục diệm”, 2 bên 2 câu đối “Tây thiên
khai tứ thất huệ đăng minh tổ ấn, Đông độ kế nhị tam pháp ấn hiển tông phong”; Bên
phải, bên trái thờ các vị tiền bối hữu công hộ trì tam bảo. Bên trái ghi 4 chữ
“Khai sơn thạc đức” và 2 câu đối “Khai
sáng đạo tràng Phật pháp hưng long vạn đại, Sơn môn thạch trụ thiền gia tráng
lệ thiên thu”. Bên phải ghi 4 chữ “Kế vảng khai lai” và 2 câu đối “Kế vảng phụng thừa chí nguyện tuân hành
Phật hóa, Khai lai hộ đạo tâm thành bẩm giáo di ngôn”. Cả 3 bàn thờ xếp
nhiều long vị các cố Hòa thượng tiền nhiệm trụ trì bổn tự và các tiền bối đã
quá vãng, chạm trổ rất công phu. Ngoài ra, trên 4 cột của gian này còn treo
thêm 4 câu liễn đối. Đôi giữa “Đăng diệu
huy hoàng chúc thiên niên nhi vĩnh thạnh, Hương yên liêu nhiễu kỳ vạn cổ dĩ hàm
hanh”. Bên trái “Đại trượng phu chích
thủ bát khai sanh tử lộ”. Bên phải
“Kì nam tử song mi trứu phá danh lợi quan”.
Nối tiếp chánh điện,
gian thứ 2 rộng 144m2, ở giữa đặt bàn thờ Tổ quốc có ảnh Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Sau lưng bàn thờ Tổ quốc, treo một khung ảnh đen trắng lớn lưu niệm
các đồ chúng chụp chung với Hòa thượng Huệ Đăng lúc còn sanh tiền (trong ảnh này có HT.Thích Pháp Thân).Trong
khung ảnh ghi: “Đại lão Hoà thượng Huệ Đăng cùng các môn đệ chùa Thiên Thai” (Bà Rịa Vũng Tàu). Đặc biệt, gian này bên
hông trái có mở một cửa rộng ra vào, do đó còn được dùng làm nơi tiếp khách và
cuối gian dựng một giá gổ nâng bằng công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc
gia.
Gian thứ 3 là giảng đạo đường rộng 224m2. Gian này là nơi giảng kinh cho đồ chúng trong tự viện (gia giáo). Ngoài ra còn để thuyết pháp trong những ngày lễ hội cho đại đa số Tăng Ni, tín đồ phật tử… Phía trước ngay giữa gian 3 là bàn thờ Đức Phật Chuẩn Đề Bồ Tát. Để tưởng nhớ công lao to lớn của 2 vị Hòa thượng trụ trì đời thứ ba và đời thứ tư, 2 bên bàn thờ Chuẩn Đề an trí 2 bức di ảnh, bên phải là Hòa thượng Hoằng Đạo, bên trái là Hòa thượng Pháp Thân. Sau bàn thờ là quá đường (nơi chư tôn đức thọ trai), kế tiếp là pháp tòa (nơi chư tôn Hoà thượng thuyết pháp)… Tại gian 3 này, ở giữa còn được bài trí bức hoành phi “Giảng Đạo Đường”. Hàng cột thứ nhất có 4 câu liễn đối từ trái qua phải như:
“Tịnh đức tín cao minh tấu
niệm Di Đà chơn diện mục
Nghiệp duyên tăng thượng thiện chỉ quy
cực lạc cố gia hương”
“Đạo nguyên đại giác giáo truyền nhập
thánh siêu phàm giai thọ thử
Tràng bạn bồ đề phu tọa minh tâm kiến
tánh tổng tại tự”
Bên hông phải của chùa từ gian thứ
2 đến gian cuối còn có một dãy nhà trù rộng khoảng 270m2, đầu dãy là
phòng truyền thống của nhà chùa, trưng bày những hiện vật có liên quan đến việc
nuôi chứa cán bộ cách mạng ở tại chùa, treo nhiều huy chương, bằng khen, giấy
khen và ảnh các ông bà cán bộ cách mạng có thời gian công tác tại chùa. Gian
thứ 2 thờ tượng Giám Trai Sư Giả. 7 gian còn lại là nơi sinh hoạt của các chư
tăng và nhà bếp, nhà ăn của bổn tự.
Nói chung, việc kiến trúc chùa Hội
Linh không giống như kiến trúc của các ngôi chùa Phật cổ khác. Từ gian chánh
điện đến các gian nối tiếp theo tạo thành một trục thẳng với chiều ngang bằng
nhau, chùa được xây dựng bằng vật liệu gạch, xi măng, sắt, gổ, mái lợp ngói,
nền lát gạch tàu. Kết cấu tường gạch,hệ thống vòmmái được nâng đỡ bởi những hàng
cột gỗ quý
tròn đường kính 25cm có chân đế bằng đá, trụ xi măng. Các
vĩ kèo kết cấu đơn giản, làm theo kiểu nhà Trính, các cây trổng được bào láng
đặt trên cối hình vuông, hình thang, đầu trổng có hình cánh dơi. Các bao lam
nơi chánh điện và các điện thờ được chạm trổ rất công phu. Về họa tiết, hoa văn
trang trí nhìn chung đều theo những quy ước truyền thống: Long Quy Phụng Hưu,
Mai Lan Cúc Trúc Sen …
Chùa Hội Linh tổng số hơn 100 pho
tượng lớn nhỏ bằng nhiều chất liệu khác nhau: đồng, gổ, xi măng, thạch cao…
trong đó có 17 pho tượng bằng gổ: Phật Chuẩn Đề 18 tay cưỡi chim Khổng Tước cao
1,82m(tính cả bệ hoa sen); tượng đứng
ông Hộ Pháp cao 1,6m; 2 ông Thiện Hữu, Ác Hữu cao 1,4m, 1,3m; Ngọc Hoàng cao
0,77m; Nam Tào, Bắc Đẩu cao 0,72, 0,63m; Thập Điện, Ngũ Diện cao 0,95m, 0,85m; Bốn
tượng Phán Quan cao 0,72m; Quan Công cao: 0,72m; Địa Tạng cưỡi Kỳ lân cao 1,7m (tính cả Kỳ lân); Phật Thích Ca sơ sinh cao 0,57m; tượng Giám Trai cao 0,7m.
Đặc biệt, tượng ông Giám Trai. Mặc dù không lớn hơn so với các tượng khác trong
chùa. Nhưng pho tượng được bố cục, chạm khắc rất tỷ mỹ vững chắc trên bệ gổ
trong tư thế ngồi, thể hiện mô tã được nét đặt trưng của một con người không
màng đến danh lợi, con người tự nguyện suốt đời ở trong nhà bếp của chùa để bửa
củi, nấu cơm cho chúng tăng. Một tay tì trên cán búa dựng thẳng trước mặt, một
tay để trước ngực, mình cởi trần, quần vận lưng, nổi bật bộ xương xẩu được cách
điệu khúc chiếc, gương mặt xương thanh thoát, má lõm sâu, nhưng lại có đôi mắt
sáng hoắt nhìn thẳng về phía trước. Qua các pho tượng, ta phải thừa nhận rằng
cách nhìn của nghệ nhân về tỉ lệ người khá chuẩn và tay nghề rất điêu luyện,
sắc xảo. Riêng tượng Giám Trai thật sự là một tác phẩm điêu khắc độc đáo.
III. Mối quan hệ giữa chùa và xã hội.
1. Chùa Hội linh từ ngày khai sơn
đến nay đã được 102 năm, so với thời gian lịch sử thì chưa phải dài. Sự hình
thành và tồn tại của ngôi chùa trong khoảng thời gian này đã gắn liền với 2
cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ xâm lược của dân tộc Việt Nam nói chung, của nhân dân Cần Thơ
nói riêng. Chính vì vậy, mặc dù tại 2 cổng phụ vào chùa treo 2 tấm biển có dòng
chữ “Thiền môn nghiêm tịnh” – “Hải chúng an hòa” nhưng nhà chùa cũng không thể
đứng ngoài cuộc nhìn cảnh nước mất nhà tan, chúng sanh phân ly tử biệt… Từ năm
1941, chùa Hội Linh đã tiếp nhận và nuôi chứa bảo vệ ông Nguyễn Hoàng Lương một
cán bộ cách mạng đã bị lộ diện ở Bình Điền chạy đến. Và từ đây, nhà chùa đã trở
thành một cơ sở bí mật của cách mạng. Các Hòa thượng, tăng ni và bà con phật tử
trong vùng luôn sẳn sàng che chở, đùm bọc, nuôi chứa nhiều cán bộ lãnh đạo cách
mạng như các ông bà: Nguyễn Hoàng Lương, Lâm Hồng
Quang, Thiều Quang Thể, Nguyễn Kim Hạnh, Trương Văn Biên… ở tại chùa để hoạt
động nội thành từ thời kỳ tiền khởi nghĩa cho đến hết 9 năm kháng chiến chống
Pháp.
Năm 1946, để bảo vệ cơ sở cách mạng tại đây và phá vỡ ý đồ
của địch chọn chùa đóng đồn để phòng thủ bảo vệ vùng ven Cần Thơ, Hòa thượng
Thích Pháp Thân đã quyết định đốt một phần ngôi chánh điện. Sự hy sinh của nhà
chùa thể hiện tinh thần yêu nước, bảo vệ cán bộ, bảo vệ cơ sở cách mạng, của
các vị Hòa thượng, các tăng ni rất cao, đã giúp cho nhiều cán bộ cách mạng tiếp
tục bám trụ hoạt động bí mật trong nội thành cho đến ngày đình chiến.
Sau hiệp định Genève ký kết ngày
20/7/1954 cuộc đấu tranh của nhân dân ta chuyển sang thời kỳ đấu tranh chính
trị đòi dân sinh dân chủ, đòi chánh quyền Sài Gòn nghiêm chỉnh thi hành hiệp
định Genève. Chùa Hội Linh vẫn tiếp tục là cơ sở cách mạng vững chắc và bảo vệ an
toàn cho nhiều cán bộ cách mạng bám trụ tại đây. Đồng thời còn là địa điểm bí
mật tổ chức nhiều cuộc họp triển khai đường lối chủ trương chánh sách của cách
mạng và nội dung hình thức đấu tranh công khai với địch. Kết quả cơ sở cách
mạng tại chùa Hội Linh đã tổ chức được 13 hội, nghiệp đoàn như: Hội truyền bá
quốc ngữ, hội tương tế… nghiệp đoàn giáo chức, nghiệp đoàn xe lôi, nghiệp đoàn
nông dân, nghiệp đoàn phụ nữ mua gánh bán bưng…
Trong thời gian này địch đã tình
nghi chùa Hội Linh là cơ sở “Việt cộng nằm vùng”. Chúng đã cho một trung đội
lính đến bao vây nhà chùa. Mặc dù không tìm ra tang vật chứng gì, nhưng địch
cũng bắt Hòa thượng Thích Pháp Thân cùng với 6 vị tăng và 6 bà con phật tử ở
chung quanh chùa đi điều tra giam giữ ở nhà tù Phú Lợi đến 3 năm. Địch đã dùng
mọi thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, tra tấn rất dã man nhưng Hòa thượng Pháp Thân và
các chư tăng, phật tử đều giữ vững khí tiết một lòng kiên trung với cách mạng.
Cơ sở cách mạng tại chùa Hội Linh vẫn được an toàn và tiếp tục nuôi chứa, bảo
vệ cán bộ cách mạng cho đến ngày 30/4/1975 giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà.
Trong thời gian bị địch cầm tù tại
Phú Lợi Hòa thượng Thích Pháp Thân dõng dạt nói với địch : “ … còn giặc ngoại
xâm thì nhà chùa không thể tu hành được …”
Ngoài nhiệm vụ nuôi chứa và bảo vệ
cán bộ cách mạng tại cơ sở của chùa. Hằng tuần, nhà chùa còn công khai tiếp đón,
giúp đở, lo chu đáo về chổ ăn chổ ở cho hơn 200 gia đình thân nhân từ các nơi
về đây thăm chồng con em là cán bộ chiến sỹ cách mạng bị địch bắt giam tại trại
tù binh Lộ Tẻ.
Với ý nghĩa nêu
trên, Bộ Văn hóa
Thông Tin có quyết định số 774/QĐBT/1993 ngày
21/6/1993 công nhận chùa Hội Linh là Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc
gia.
Để bù đắp sự hy sinh và thành tích
đóng góp to lớn cho sự nghiệp kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược của Chùa
Hội Linh. Năm 2005, Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã cấp ngân sách 1.549.220.000đ, giao
cho Sở Văn hóa Thông tin thành phố Cần Thơ làm chủ đầu tư tu bổ sửa chửa lại
toàn bộ ngôi chùa. Công trình đến cuối năm 2006 hoàn thành.
2. Tiếp tục phát huy truyền thống
cách mạng và để xứng đáng là một Di tích lịch sử văn hoá được nhà nước công
nhận. Chùa Hội Linh ngày nay vẫn là một cơ sở tôn giáo được đông đảo bà con
phật tử đến tu học và lễ bái. Bổn tự tiếp tục hướng dẫn cho các tăng ni và bà
con phật tử theo đúng con đường giáo lý của nhà Phật, nhằm góp phần xây dựng
mối quan hệ tốt đạo đẹp đời. Hằng tháng có tổ chức sinh hoạt thuyết giảng cho
phật tử tập tu.
Hiện nay nhà chùa có 1 Hòa thượng,
1 Thượng tọa, 2 Đại đức, 1 Sa di và có hơn 500 phật tử đang theo tu học. Trong
những ngày lễ lớn: rằm Thượng ngươn 15 tháng giêng; Lễ Phật Đản 15
tháng tư; Lễ rằm Trung ngươn và lễ Vu Lan 15 tháng bảy; Lễ vía Đức Phật A Di Đà
17 tháng mười một… có hàng ngàn người đến bái viếng chùa.
--------------
2. CHÙA KIM LIÊN
Phường
Bình Thủy, quận Bình Thủy, Tp. Cần Thơ
Chùa Kim Liên, thuộc hệ phái Bắc
tông, có lối
kiến trúc vừa cổ xưa, vừa hiện đại. Mặt tiền chùa quay ra đường Lê Hồng Phong, tọa
lạc tại số 13/10 thuộc khu vực II, phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, thành phố
Cần Thơ. Điện thoại số: 0710 3841206. Chùa được xây dựng trên phần đất rộng 1757m2
quay mặt về hướng Tây Nam nằm trên trục quốc lộ Cần Thơ – Long Xuyên.
Chùa Kim Liên ban đầu tu theo hệ Thiền
Lâm Tế, đến năm 2003 gia nhập giáo hội Phật giáo Việt Nam. Hiện nay do Ni sư Thích Nữ Như
Nhẩn làm trụ trì chùa.
I. Lịch sử hình thành ngôi Kim Liên Tự .
I. Lịch sử hình thành ngôi Kim Liên Tự .
Theo lời kể của Ni sư Như Huyền và
con cháu gia đình họ Nguyễn cùng bà con phật tử trong vùng. Chùa Kim Liên, ban
đầu thuộc gia tộc họ Nguyễn, được khởi lập từ năm Đinh Mùi – 1967, do cụ Nguyễn
Văn Cơ đứng ra xây cất trên phần đất nhà rộng gần 1,4 ha, lấy tên là “Kim Liên
Tự”, cho người con gái thứ bảy trong gia đình tên Nguyễn Thị Kim Xuyến nương
nhờ cửa Phật.
Ban đầu ngôi chùa được xây dựng
theo lối kiến trúc kết hợp giữa cổ xưa và hiện đại. Tường được làm bằng gạch,
mái lợp ngói xây dựng trên tổng diện tích 451m2. Trong đó ngôi chánh
điện ngang 9 mét, rộng 10 mét. Nhà hậu tổ ngang 9 mét, rộng 10 mét, hai bên có 2
dãy đông lang và tây lang mỗi dãy ngang 5 mét, rộng 10 mét. Phía sau hết là khu
nhà thiền và nhà bếp ngang 19 mét, rộng 9 mét.
Đến năm 2003, gia đình đã tách
phần đất 1757m2 dành riêng cho chùa. Và tiến hành trùng
tu sửa chữa lại những nơi bị xuống cấp, giữ nguyên hiện trạng cho đến ngày nay.
Sư cô Nguyễn Thị Kim Xuyến - pháp
danh Thích Nữ Nhật Huỳnh sinh năm Bính Dần – 1926, xuất gia năm 1967 và tu tại
chùa Kim Liên do phụ thân xây cất. Sư cô Nhật Huỳnh viên tịch vào ngày 03 tháng
01 năm 1984 nhằm ngày mùng một tháng chạp năm Quý Hợi. Hưởng dương 58 tuổi.
Sau khi sư cô Thích Nữ Nhật Huỳnh
mất, sư cô Thích Nữ Nhật Hoà – thế danh Nguyễn Thị Thuận (chị ruột thứ 2 của sư cô Nhật Huỳnh) thay thế trụ trì chùa cho đến
tháng 9 năm 2008. Tỳ kheo ni Thích Nữ Nhật Hoà - sinh ngày 12/4/1913, tại xã
Long Tuyền, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang, xuất gia vào ngày rằm tháng bảy
năm Tân Dậu – 1981, tu tại chùa Kim Liên đến ngày mùng tám tháng giêng năm Kỷ
Sửu – 2009 viên tịch - hưởng thọ 97 tuổi.
Trong thời gian từ năm 1987 đến năm
2008, do sư cô Nhật Hòa tuổi cao sức yếu, gia đình họ Nguyễn có mời Sư thầy
Thích Lệ Hoa về tu tại chùa được 13 năm, năm 2000 sư thầy Lệ Hoa chuyển tu nơi
khác, sau đó có sư cô Ngọc đến tu tại chùa được 8 năm cũng chuyển về tu ở quê
nhà tại Tịnh xá An Huệ,Tân Quới – Tân Lược, tỉnh
Đồng Tháp.
Tháng 9 năm 2008, được sự thỉnh
mời của gia tộc chùa Kim Liên, Ban trị sự giáo hội Phật giáo thành phố Cần Thơ
chính thức bổ nhiệm Ni trưởng Thích Nữ Như Nhẩn về làm trụ trì chùa cho đến
ngày nay.
Ni sư Thích Nữ Như
Nhẩn
Ni sư Thích
Nữ Như Nhẩn, thế danh Khưu Thị Tái – sinh 1958 năm Mậu Tuất, tại xã An Bình –
Cần Thơ, nay thuộc phường Hưng Phú, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Xuất gia
vào tháng giêng năm Mậu Ngọ - 1978, tu tại chùa Bảo An, số 49 Vỏ Văn Tần, quận
Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Sau đó về tu tại chùa Pháp Hoa – thành phố Long
Xuyên khoảng thời gian 2 năm, trở về chùa Bảo An – Cần Thơ cho đến năm 2008 về
làm trụ trì chùa Kim Liên. Ni sư đã tham gia nhiều khoá tu học ở chùa Pháp Hoa,
chùa Dược sư Gò Vấp – thành phố Hồ Chí Minh và dự lớp bồi dưỡng trụ trì chùa
tại Cần Thơ.
Từ ngày xuất gia đến nay, sư cô đã tham gia khoá phật học cơ bản tại chùa Dược Sư Gò Vấp – thành phố Hồ Chí Minh, khi hoàn thành khoá học về Cần Thơ tu tại chùa Bảo An quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Ni sư Như Huyền cũng được Ban trị sự giáo hội Phật giáo Cần Thơ thuyên chuyển về chùa Kim Liên cùng thời gian (tháng 9/2008) với Ni sư Như Nhẩn, là người trực tiếp chăm lo sức khỏe cho sư cô Nhật Hòa đến ngày sư cô về với Phật. Và cùng với Ni sư Như Nhẩn điều hành toàn bộ mọi phật sự tu niệm lễ bái của chùa. Ni sư Như Nhẩn và Ni sư Như Huyền cùng được tấn phong Ni sư vào năm 2008.
Lễ nhập tự của Ni sư Như Nhẩn
II. Những đặc điểm chính của chùa.
Mặc dù ban đầu là một ngôi chùa
gia đình nhưng đã được xây dựng hết sức quy mô. Ngoài đường Lê Hồng Phong nhìn
vào, chùa có cổng tam quan khá khang trang chiều ngang rất rộng và cao gần 7
mét. Ngôi chánh điện rộng 90m2
có 2 cửa chính đi vào. Trên ban công mặt tiền xây bức tường tạo dáng vòm tròn
đắp tên chùa chữ nổi “KIM LIÊN TỰ”. Trên sân có cột cờ cao 12 mét, treo 2 lá cờ
Nước và cờ Phật, chung quanh cột cờ có trồng nhiều cây bonsai, xếp nhiều chậu
cây hoa, kiểng xum xê rợp bóng. Phía trước chánh điện có đài Quán Thế Âm Bồ Tát
lộ thiên cao 2 mét.
Bên trong chánh
điện rộng thoáng, từ cửa nhìn vào điện thờ được bài trí ngay chính giữa có bao
lam chạm khắc hoa văn sơn son thếp vàng. Trên ban thờ tôn tượng Phật Thích Ca
Mầu Ni uy nghiêm ngồi trên tòa sen cao 2 mét, trước bức tranh phong cảnh có cây
Bồ Đề, phía trước xếp tượng Phật A Di Đà đứng trên tòa sen cao o,7 mét và 3
tượng nhỏ, ở giữa Phật Thích Ca ngồi, hai bên 2 tượng đứng Phật A Di Đà .
Bậc thứ hai, xếp thêm một tượng
Phật đản sanh nhỏ và tượng Phật Di Lặc Bồ Tát, hai bên đặt bình hoa và trái cây.
Bậc thứ ba, ở giữa đặt lư hương hai bên xếp chuông mõ. Bật thứ ba, đặt lư hương
ở giữa hai bên là chuông, mõ.
Bên phải đặt bàn thờ tượng Phật Bồ
Tát Địa Tạng đứng trên tòa sen cao 2 mét. Bên trái đặt bàn thờ tượng Quán Thế
Âm Bồ Tát đứng trên tòa sen cao 2 mét.
Phía
đối diện, chính giữa là bàn thờ đặt hai tượng Đức Hộ Pháp di đà và Tiêu Diện đại
sĩ. Bên vách phải đặt một khánh trống lớn. Bên vách trái sát cửa vào đặt một
khánh chung đồng to, trên chân khánh có treo các bài kệ khai chung và thâu
chung khuya, sáng, chiều, tối :
Thập địa chúng sanh
mong giải khổ
Cửu ưu thập loại
thoát trần ai
Nam Mô Siêu Thập Địa Bồ Tát
(lập lại 3 lần)
Thâu chung khuya
Năm canh chung đóng chớ
mê man
Phủi giủ lòng son
đến trước bàn
Mỗi câu mỗi niệm
danh hiệu Phật
Ao sen đã trổ một
bông vàng
Nam Mô Định Tâm Vương Bồ Tát
(lập lại 3 lần)
Khai chung sáng
Nghe chung tinh tấn chuyên niệm
Phật
Nguyện đức Minh Vương cứu khổ nàn
Tay cầm châu báo tích trượng vàng
Dộng tan địa ngục độ toàn chúng
sanh
Khắp trong ba cỏi an lành
Đều nhờ nguyện lực độ sanh của
Ngài
Nam Mô Đại Nguyện Địa
Tạng Vương Bồ Tát
(lập lại 3 lần)
Thâu chung sáng
Nghe chung tiêu dứt nghiệp não
phiền
Tăng trưởng Bồ Đề trí huệ viên
Hầm lửa thoát ra lìa địa ngục
Chúng sanh thành Phật số vô biên
NamMô Định Tâm Vương Bồ Tát(lập
lại 3 lần)
Khai chung chiều
Mộ thời chung động nguyện chư linh
Tốc phó liên đài thoát địa minh
Nghiệp chướng tận trừ quy lạc quốc
Vãng lai tam giới độ mê tình
Nam Mô Siêu Lạc Độ Bồ
Tát (lập lại 3 lần)
Thâu chung chiều
Nghe chung thức giấc
cõi Ta Bà
Danh lợi buộc ràng
nguyện thoát ra
Nếu mất thân người
thôi khó gặp
Cần lo giải thoát
niệm Di Đà
Nam Mô A Di Đà Phật (lập lại 3 lần)
Khai chung tối
Hồng chung sơ khấu
bảo kệ cao âm
Thượng thông thiên
đường hạ triệt địa phủ
U minh giáo chủ cứu
khổ bổn tôn
Cứu Bạt Minh Đồ Đại
Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát (lập lại 3 lần)
Thâu chung tối
Sơ canh dĩ đáo vô
thường tấn tốc
Ngưỡng lao đại chúng
an tọa tịnh chung
Văn chung thinh nhứt tâm kế niệm
A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
(lập lại 3 lần).
Khu nhà Hậu tổ, giữa đặt bàn thờ
chính có bức tranh Đức Tổ Sư Đạt Ma, phía đối diện giữa trung tâm đặt bàn thờ
tượng Bồ Tát Chuẩn Đề, phía sau là bàn thờ hai sư cô trụ trì. Vách bên phải đặt
bàn thờ gia tộc họ Nguyễn, vách bên trái đặt bàn thờ phật tử bá tánh.
Bàn thờ Hậu Tổ
Bồ Tát Chuẩn Đề
III. Mối quan hệ nhà chùa và xã hội.
Từ năm 2008 đến nay, nhà chùa đã
tiến hành định kỳ các ngày lễ lớn: rằm thượng Ngươn, rằm trung Ngươn, rằm hạ Ngươn
và ngày lễ Phật đản tháng tư. Hiện nay chùa đã tiến hành mở khóa tu niệm Phật
một ngày an lạc, định kỳ mỗi tháng một lần, có 200 đến 300 phật tử trong vùng
về tu học.
Ảnh tư liệu của chùa
Nhà chùa còn tham gia tích cực
công tác từ thiện xã hội với chính quyền địa phương, đóng góp tiền làm cầu
đường, xây nhà tình thương, tham gia vào hội khuyến học tặng tập viết cho học
sinh có hoàn cảnh khó khăn khoảng 20 triệu đồng/năm. Phân phát gạo cho người
nghèo trong các dịp lễ tết khoản 2 tấn gạo/năm.
Trước đây chùa gần như không có
phật tử, hiện nay (năm 2009) đã có
hơn 300 phật tử đang theo tu học tại chùa, nhờ khuôn viên nhà chùa rộng rãi
thoáng mát, nên các dịp ngày lễ, tết đã có hàng ngàn bà con phật tử gần xa đến tham
quan, cúng viếng Phật tại chùa. Đồng thời bà con đã phát tâm cúng dường nhiều
tiền của, giúp cho nhà chùa sửa sang tu bổ lại các công trình phụ như: nhà bếp,
nhà ăn và xây dựng mới 10 cầu vệ sinh công cộng phục vụ cho tăng ni, phật tử
đến tu học sử dụng./.
3. LONG QUANG CỔ TỰ
Phường Long Hòa, quân
Bình Thủy, Tp.Cần Thơ
----------------------------------
Long Quang Cổ Tự, tên thường gọi
chùa Long Quang - thuộc hệ phái Bắc tông. Khung viên chùa 7.000m2
nằm trên diện tích đất 11.700m2, tọa lạc tại số 155/6, khu vực Bình
Chánh, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Điện thoại số 0710
3841805. Hiện nay do Đại đức Thích Bình
Tâm làm trụ trì.
Lịch sử hình thành ngôi chùa.
Theo lời của trụ trì và những tư
liệu còn lại của chùa, đồng thời có tham khảo tư liệu hồ sơ di tích về chùa tại
Bảo tàng thành phố Cần Thơ thì chùa Long Quang được khởi nguyên từ năm Ất Dậu
1824 – năm Minh Mạng thứ V. Vị trí khung viên của chùa tại thôn Bình Thủy (nằm trên ba phường Long Hoà, Long Tuyền,
Bình Thủy hiện nay), thuộc tổng Định Thái, huyện Vĩnh Định; Sang đời Tự Đức
và thời Pháp thuộc đổi thành tổng Định Thới, huyện Ô Môn; Đến năm 1954, địa
danh trên đổi thành ấp Bình Phó, xã Long Tuyền, tỉnh Phong Dinh; Sau năm 1975,
chùa thuộc ấp Bình Nhựt B, xã Long Tuyền, thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang;
Năm 1992, tỉnh Hậu Giang chia làm 2 tỉnh (Cần
Thơ, Sóc Trăng) thì vị trí chùa
nằm tại ấp Bình Nhựt B, xã Long Hòa, thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ và hiện
nay là khu vực Bình Chánh, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
Kể lại rằng, thuở ban đầu ở đây
còn hoang sơ, Phật giáo chưa được phổ biến rộng rãi. Khoảng năm Mậu Thìn 1807 (năm Gia Long thứ VI), trong thôn có một
cậu bé tên Võ Văn Quyền mới lên 10 tuổi, đã dốc lòng cầu đạo, lặn lội tìm tới
chùa Linh Quang ở Gia Định quy y, được Hòa thượng Thiên Ấn nhận làm đệ tử - đặt
pháp danh Liễu Huệ. Sau 10 năm thọ pháp tu học, từ chú tiểu Liễu Huệ phát
nguyện thế độ, rồi thọ đại giới. Năm 20 tuổi, sư Liễu Huệ cầu chánh pháp nhãn
tạng và được pháp hiệu Thiện Quyền. Thiền sư Thiện Quyền tiếp tục vân du cầu
học với nhiều Chư Tôn Đức khắp các sơn môn như Chùa Giác Lâm ở Gia Định, chùa
Huê Nghiêm ở Thủ Đức… được các Tổ sư thời bấy giờ trao truyền hết nội ngoại
điển. Đến năm Ất Dậu 1824, Ngài mới trở về quê quán dựng một thảo am nhỏ để tu
hành và truyền bá Phật pháp.
5 năm sau, năm Canh Dần 1829 – năm
Minh Mạng thứ X, có nhiều tín đồ quy y thọ giới. Thiền sư Liễu Huệ phát nguyện
chuyển cái thảo am nhỏ, để xây dựng thành một ngôi chùa. Được đông đảo bà con
phật tử đồng lòng góp sức, đến năm Bính Thân 1835, ngôi chùa cất bằng gổ, lợp
ngói cơ bản hoàn thành. Ngài đặt hiệu là “LONG TRƯỜNG TỰ”, với ước nguyện cầu
mong ngôi chùa bền như trời đất, vững như núi sông theo ý của câu đối Hán tự
“Dữ thiên địa long hưng – Hoà sơn hà trường cửu”. Sau đó, Thiền sư gởi đơn tấu
lên vua Minh Mạng, xin cho phép duy trì ngôi chùa và giữ giới tu hành. Đơn tấu
đã được nhà vua chấp nhận và ghi vào sổ bộ của triều đình vào ngày mồng 9 tháng
10 năm Đinh Dậu - 1836. Cùng thời gian này, thân mẫu của bà Đặng Thị Tây và ông
Đặng Văn Khánh, hiến cúng dường thêm một phần đất, để mở rộng thêm diện tích
cho nhà chùa có được cho đến bây giờ. Thiền sư Liễu Huệ (Võ Văn Quyền) đã sống hết lòng với sự tu hành tại chùa cho đến khi
mản phần. Có thể coi chùa Long Trường thời ấy là ngôi chùa có cao Tăng đầu tiên
ở khu vực Cần Thơ.
Sau khi Thiền sư Liễu Huệ qua đời, đến khoảng năm Kỷ Mùi 1859, có nhà
sư Trần Quảng Hiền về trụ trì. Lúc bấy giờ ngôi chùa bị hư hỏng nặng, sư Quảng
Hiền tập trung xây dựng lại ngôi chùa, đến khoảng năm 1860, 1861 hoàn thành và
đổi tên lại là “LONG QUANG TỰ” với mong muốn đem lại ánh sáng ấp áp, mang đến
niềm vui, hạnh phúc thịnh vượng cho mọi người.
Đến năm Ất Sửu 1889, có Hòa thượng
Từ Quang - pháp hiệu Ngộ Cảm, về trụ trì chùa,
ông là nhà sư nhưng cũng là một thầy thuốc nam rất giỏi. Trong thời gian 33 năm
sống và tu ở đây Hoà thượng Từ Quang đã coi mạch bốc thuốc chữa bệnh cho rất
nhiều người dân. Với tài năng đức độ đó, Hòa thượng được bà con nhân dân nơi
đây rất mực tôn kính. Hoà thượng viên tịch vào năm Nhâm Tuất 1924, hưởng dương 49 tuổi.
Sau khi Hoà thượng Từ Quang mất,
nhà sư Đặng Văn Vị - pháp danh Trí Thới, huý hiệu Chơn
Khương (đệ tử của Hoà thượng Từ Quang)
trông coi ngôi chùa. Đến năm Canh Ngọ 1930, ngôi chùa đã bị xuống cấp trầm
trọng, sư Trí Thới đã được các thân hào nhân sĩ và bổn đạo trong địa phương
cúng dường nhiều tiền của để tái thiết lại ngôi chùa. Cuối năm 1930 chùa được
xây dựng hoàn thành với qui mô kiên cố tường gạch, mái lợp ngói gồm một ngôi
chánh điện có 3 gian rộng rải và một nhà khói. Bên trong chánh điện tôn trí lại
bộ tượng thờ của Thầy Tổ để lại trang nghiêm cân đối hài hòa đẹp mắt. Cùng thời
gian này, trong chùa có 6 vị nhà tu và hàng trăm người thường xuyên đến chùa lễ
bái. Để tránh tai mắt của nhóm Hương Chiếu Hội Tề ở Bình Thủy dòm ngó, làm khó
dể, sư Trí Thới mời ông Tòng Hiên (là
chiến sĩ Văn Thân ở Quảng Ngãi chạy vào Nam lánh nạn) đến ở tại chùa vừa
dạy thuốc, dạy chữ vừa truyền bá tư tưởng yêu nước cho nhân dân ở địa phương.
Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động này bị bọn mật thám của chánh quyền đô
hộ nghi ngờ, nên ông Tòng Hiên phải lánh qua chùa Long Phước ở Nha Mân – Sa
Đét, nhưng cũng bị giặc phát hiện, ông Tòng Hiên phải trở lại chùa Long Quang
lần thứ hai, được nhà chùa bảo bọc cho đến mười năm sau ông mới trở về Quảng
Ngãi.
Đến năm Ất Dậu 1945, thực dân Pháp
trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Sau khi chiếm đóng Cần Thơ (tháng 10/1945) để mở rộng vùng kiểm
soát chúng tìm kiếm những nơi có đình chùa lớn để đóng đồn bót. Sư Trí Thới là
nhà sư yêu nước, đã hưởng ứng phong trào tiêu thổ kháng chiến chống Pháp xâm
lược. Nhà sư cùng bổn đạo thỉnh bộ tượng Phật xuống thờ ở nhà khói, tháo giỡ
toàn bộ ngôi chánh điện. Đồng thời hiến quả đại hồng chung cổ của chùa cho cách
mạng để lấy đồng làm đạn chống giặc ngoại xâm. Và chùa Long Quang còn là cơ sở
nuôi chứa nhiều cán bộ cách mạng hoạt động nội thành. Sư Trí Thới sử dụng nhà
khói để lưu giữ bảo vệ bộ tượng thờ của Thầy Tổ để lại và tu ở đó đến ngày 13 tháng 7 năm 1963 viên tịch, hưởng thọ 85 tuổi.
Năm Giáp Thìn 1964, bà Hai Đức và bà con phật tử
thỉnh mời Thầy Chơn Khánh (ông Nguyễn Văn Phước), pháp danh Thiện Hiếu – tục gọi ông Bảy Phúc
(là đệ tử cầu
pháp của Hòa thượng Pháp Thân - chùa Hội Linh) người ở ấp Bình Thường, xã Long Tuyền về trông coi chùa và nhang đèn
kinh kệ sớm hôm. Lúc bấy
giờ ngôi nhà khói xuống cấp hư hỏng nặng, được bà con nhân dân trong vùng ủng
hộ, thầy Chơn Khánh sử dụng vật liệu tháo gở chùa trước đây còn lại, tiến hành
xây cất lại ngôi chùa trên nền cũ. Khi chùa xây gần xong, bị bom đạn Mỹ bắn phá
hư hại hoàn toàn. Thầy cùng với bà con tổ chức đấu tranh quyết liệt, buộc Mỹ và
chánh quyền Sài Gòn phải đến bù vật liệu để xây dựng lại chùa. Đến năm Bính Ngọ
1966, ngôi chánh điện đã được xây xong. Thầy Thích Chơn Khánh trụ trì và tu ở
chùa được gần 20 năm, viên tịch năm 1983. Đến năm
1987, mái tôn cũ bị mục, bà con trong xóm tháo bỏ tôn lợp lại bằng ngói.
Sau khi Thầy Chơn Khánh mất, gần
10 năm nhà chùa không có ai trụ trì. Việc nhang đèn được bà con phật tử ở gần
trông coi. Mãi đến năm Nhâm Thân 1992, được sự
thỉnh cầu của bà con phật tử, Ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Cần Thơ bổ
nhiệm Đại đức Thích Bình Tâm về trụ trì chùa.
Đại đức Thích Bình Tâm, thế danh Nguyễn Thanh Phong - sinh năm Giáp Thìn 1964, tại xã Tân Thới, huyện Phong Điền, Cần Thơ. Từ nhỏ đã sống và sinh hoạt trong nhà chùa gia đình ở Nhà Bàn, Tịnh Biên, Châu Đốc – An Giang. Đại đức Bình Tâm xuất gia năm 1988 và tu học tại Thiền viện Thường Chiếu, Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Trong thời gian 5 năm tu học, rèn luyện gia công gia hạnh, được quý sư Thầy Hoà thượng Bổn viện quý mến yêu thương tận tâm trao truyền Phật pháp, đến năm 1992 mới trở về Cần Thơ. Được Giáo hội Phật giáo tỉnh Cần Thơ bổ nhiệm về làm trụ trì chùa Long Quang cho đến ngày nay. Hiện nay ngoài công việc trụ trì chùa, Đại đức Bình Tâm còn tham gia và giữ nhiều chức vụ trong Giáo hội như Phó ban đại diện Phật giáo quận Bình Thủy; Chánh thư ký Ban trị sự, kiêm Trưởng ban Văn hoá Phật giáo của thành hội Giáo hội Phật giáo Cần Thơ. Đại đức Thích Bình Tâm là một vị sư trẻ, đạo cao đức trọng, bản thân hăng hái trong hoạt động Phật sự nên có nhiều uy tính trong Giáo hội, đồng thời được đông đảo bà con phật tử kính mến.
Những đặc điểm chính ngôi chùa
1. Khởi nguyên từ một thảo am nhỏ
bé. Đến năm Canh Dần 1829, mới chuyển thành ngôi chùa, từ năm Bính Thân 1835 có
tên LONG TRƯỜNG TỰ (1835 – 1860), năm
Canh Thân 1860 được đổi lại là LONG QUANG TỰ (1860 – 1966), đến năm Bính Ngọ 1966 có tên gọi LONG QUANG CỔ TỰ cho đến ngày nay.
“Long Quang Cổ Tự” - đúng như tên
gọi, từ ngày khởi nguyên đến nay ngôi chùa đã tròn 185 tuổi. So với thời gian
lịch sử thì chưa phải dài, tuy nhiên từ ngày ra đời đến nay chùa Long Quang đã
cùng với quê hương đất nước trãi qua hai cuộc chiến tranh ác liệt chống Pháp và
Mỹ xâm lược. Nhìn chung, dù phải trải qua nhiều biến cố trong lịch sử nhưng nhà
chùa vẫn là nơi tu dưỡng tâm linh thanh tịnh cho các nhà sư và nhân dân trong
vùng. Đồng thời, còn là nơi cưu mang, nuôi chứa nhiều cán bộ cách mạng, là nơi
ủng hộ kháng chiến và góp công góp sức chống giặc cứu nước. Với những đặc điểm
và thành tích nêu trên, chùa Long Quang đã được Bộ Văn hoá Thông tin - nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam công nhận là Di tích Lịch sử Văn hoá cấp quốc gia vào
ngày 21/6/1993.
Ban đầu các vị sư của chùa tu theo
hệ phái “Thiền Lâm Tế” du nhập từ Trung Quốc sang, nhưng nhà chùa không chỉ thờ
duy nhất tượng Phật Tổ mà trong chùa tôn trí thờ rất nhiều tượng Phật theo
phong cách chùa Phật ở Việt Nam. Hiện nay nhà chùa đã gia nhập Giáo hội Phật
giáo Việt Nam
và chuyển thành hệ phái Bắc tông.
2. Vị trí khuôn viên chùa khá rộng
(7000m2) nằm cặp con đường làng của Rạch Phố Chùa (hướng bên trái từ Bình Thủy đi vào).
Chùa được xây dựng lại lần gần nhất vào năm Bính Ngọ 1966 và được Nhà nước
CHXHCN Việt Nam cấp kinh phí hơn 150 triệu đồng để trùng tu lại ngôi chánh điện
vào năm 1994. Và từ ấy đến nay, nhà chùa được tiếp tục xây dựng mới và mở rộng
thêm các khu giảng đường, trai đường, thiền đường, tăng đường, khu hoa viên,
vườn tháp… ước tính kinh phí hơn một tỷ đồng do bà con phật tử gần xa cúng
dường.
Nhìn từ ngoài, mặt tiền chùa
khoảng 50 mét được xây hàng rào bằng song sắt, bên trái là cổng tam quan bề thế
với hai tầng mái ngói, đầu mái uốn công có gắn hoa văn, hai bên nóc gắn cặp
bạch long ngẩng cao đầu quay ngược vào bánh xe pháp luân ở giữa. Cổng giữa, bên
trên đắp nổi dòng chữ nhỏ “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” ở giữa “LONG QUANG CỔ
TỰ” bên dưới là “xã Long Hòa – Tp.Cần Thơ” tất cả đều bằng chữ Việt; cổng nhỏ
bên trái gắn hai chữ “TỪ BI”, bên phải gắn hai chữ “TRÍ TUỆ”; hai cột giữa gắn
hai câu liễn đối bằng chữ Hán, dịch nghĩa như sau:
“Long đức phổ thập phương,
Phật đạo hoằng thâm chánh giáo
Quang minh chiếu tam giới, thiền lâm quãng nhuận chân truyền”.
Bia lưu niệm Di tích
Trên sân chùa, ở giữa xây một hồ
nổi nhỏ trồng sen, chung quanh vách hồ gắn những cánh hoa sen cách điệu. Phía
trước cửa chùa dựng một bia lưu niệm ghi tóm tắc nội dung công nhận nhà chùa là
di tích lịch sử - văn hóa và ngày trùng tu lại ngôi chánh điện. Phía bên phải
sân, dựng tượng đài Quán Thế Âm Bồ Tát lộ thiên cao hơn 4 mét.
Ngôi chánh điện ở giữa, xây theo
lối kiến trúc Thượng lầu Hạ yên rộng 324m2, Vách bằng tường gạch,
mái lợp ngói - trùm cã 4 phía hành lang chung quanh, bên dưới đóng trần và mái
được xây bao bọc bằng hệ thống máng xối bê tông, trang trí cánh hoa sen cách điệu. Ngôi chánh điện được
thiết kế có tất cả năm cửa ra vào, hai cửa chính phía trước, một cửa sau
và hai cửa phụ hai bên hông . Ngay giữa
trung tâm
là điện thờ chính. Phía trước điện thờ chính, bên trên treo bức hoành phi bằng
gổ được chạm trổ mềm mại như một tấm lụa căng ngang, ở giữa gắn bốn chữ Hán
“ĐẠI HÙNG BẢO ĐIỆN”; bên dưới gắn khung bao lam cũng được chạm trổ hoa văn tinh
xảo thếp vàng, hai bên gắn hai câu liễn đối cũng bằng chữ Hán:
“ Long
thượng diễn chân thừa tiếp dẫn thập phương quy giác lộ
Quang minh khai nhãn tạng đề huề tứ chúng xuất mê tân ”
Trên sân chùa, ở giữa xây một hồ
nổi nhỏ trồng sen, chung quanh vách hồ gắn những cánh hoa sen cách điệu. Phía
trước cửa chùa dựng một bia lưu niệm ghi tóm tắc nội dung công nhận nhà chùa là
di tích lịch sử - văn hóa và ngày trùng tu lại ngôi chánh điện. Phía bên phải
sân, dựng tượng đài Quán Thế Âm Bồ Tát lộ thiên cao hơn 4 mét.
Ngôi chánh điện ở giữa, xây theo
lối kiến trúc Thượng lầu Hạ yên rộng 324m2, Vách bằng tường gạch,
mái lợp ngói - trùm cã 4 phía hành lang chung quanh, bên dưới đóng trần và mái
được xây bao bọc bằng hệ thống máng xối bê tông, trang trí cánh hoa sen cách điệu.
Ngôi chánh điện được thiết kế có tất cả năm cửa ra vào, hai cửa chính phía
trước, một cửa sau và hai cửa phụ hai bên hông .
Ngay giữa trung tâm là điện thờ chính.
Phía trước điện thờ chính, bên trên treo bức hoành phi bằng gổ được chạm trổ
mềm mại như một tấm lụa căng ngang, ở giữa gắn bốn chữ Hán “ĐẠI HÙNG BẢO ĐIỆN”;
bên dưới gắn khung bao lam cũng được chạm trổ hoa văn tinh xảo thếp vàng, hai
bên gắn hai câu liễn đối cũng bằng chữ Hán:
“ Long thượng
diễn chân thừa tiếp dẫn thập phương quy giác lộ
Quang minh khai nhãn tạng đề huề tứ chúng xuất mê tân ”
Điện thờ Phật trung tâm
Điện thờ chính được đóng bằng gổ
có 2 bậc. Bậc cao kê 3 ghế thờ, tôn trí ba pho “Tam Thế Phật” ngồi, bằng gổ cao
hơn 1 mét, ở giữa tôn trí Đức Bồ Tát A Di Đà, bên trái Bồ Tát Đại Thế Chí, bên
phải Bồ Tát Quán Thế Âm; bậc thấp tôn tượng Di Lặc Bồ Tát miệng cười tươi vui
vẽ và được các nghệ nhân gắn thêm 6 đứa trẻ leo trèo bên hông, trên tay, trên
vai Bồ Tát, đứa thổi sáo, đứa ngoáy tai… vui đùa với Đức Phật; phía trước xếp
tượng Phật Thích Ca nhập niết bàn, bằng gổ dài một mét, được chạm trổ hoa văn
tuyệt mỹ; phía trước nữa xếp lư hương, hai bên xếp hai chân đèn và hai bục dĩa
dùng đựng hoa quả. Tất cả đều bằng gổ. Trước điện thờ đặt một lư hương lớn thếp
vàng, hai bên có hai ghế đôn bài trí chuông và mỏ…
Đối diện điện thờ chính là bàn thờ
Hộ Pháp và Ông Tiêu. Hai bên là hai cửa ra vào. Góc tường hai bên cửa,
một bên thờ ông Thiện và để Hồng chung, một bên thờ ông Ác và để trống. Sát
vách bên phải, trên kệ dài bày trí 9 tượng La Hán, kế tiếp bàn thờ Địa Tạng
Vương Bồ Tát, phía sau là bàn thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, hai bên có Nam Tào, Bắc
Đẩu. Sát vách bên trái, trên kệ dài bày trí 9 tượng La Hán (đối diện với 9 tượng bên phải), kế tiếp bàn thờ Quán Thế Âm Bồ
Tát, hai bên có Thiên Tài, Đồng Tử. Phía sau điện thờ chính là bàn thờ Hậu Tổ. Phía
trên là tượng Chuẩn Đề Bồ Tát ngồi trên lưng chim hạt, bên dưới có tượng Đức Tổ
Sư Đạt Ma, chung quanh bày trí các long vị, các bức di ảnh của các cố Hoà
thượng trụ trì chùa. Đối diện bàn thờ Hậu Tổ ở giữa là cửa sau của chùa. Sát vách
hai bên cửa đặt hai bàn thờ, bên phải thờ các tượng Bồ Đề Đạt Ma, Quang Công và
Giám Trai, bên trái thờ các tượng Viêm Dương, Long Vương và Phán quan…
Nhìn
chung, phần nội thất bên trong chánh điện rộng thoáng, sáng sủa. Cách bày trí
các ban thờ hài hòa tôn nghiêm. Toàn bộ gần 50 pho tượng trong chánh điện đều
làm bằng gổ quý, được các nghệ nhân chạm khắc rất công phu và được lưu giữ đến ngày
nay đã gần 100 năm. Đặc biệt, là nhóm tượng 18 vị La Hán, mỗi tượng cao 80cm,
có tư thế ngồi khác nhau, tạo cho người xem hai điểm chú ý. Thứ nhất, các vị La
Hán đầu đội mũ “Từ Lư” và mặc áo tràng, không mặc áo cà sa hay đắp y bát, biểu
hiện các nghệ nhân miêu tả tượng theo truyền thuyết Phật giáo Trung Hoa. Thứ
hai, mỗi vị La Hán được bố trí ngồi trên một con thú khác nhau, tay cầm một bửu
bối khác nhau, sắc mặt của từng vị và mặt của từng con thú cũng được đặc tả
khác nhau… điều này nói lên nghệ nhân đã lột tả được cảm xúc, trạng thái, tính
cách của mỗi nhân vật theo từng trường hợp và điều kiện khi được chứng quả La
Hán. Nói chung, trên từng pho tượng có những đường lượn, nét ngang, xéo… để
tránh nhàm mắt, nhưng không bị phá cách mà còn tạo được sự uyển chuyển, mềm mại
tập trung gom vào gương mặt làm nổi bật tư tưởng: đạt được cảnh giới thiện và
trạng thái nhập định không gì lay chuyển. Đây có thể xem là nét đặc điểm chính
về nghệ thuật điêu khắc gổ các tượng Phật ở chùa Long Quang.
18 vị Bồ Tác La Hán
Phía
sau chánh điện, cách một khoảng sân sau là dãy nhà Thiền đường rộng 270m2,
trên sân sau ở giữa có hồ sen nổi tôn tượng Quán Thế Âm nhỏ, 2 bên có nhiều tán
cây bonsai, nhiều hoa kiểng và 2 chậu lớn trồng hoa sen… ; khu vực bên trái,
phía trước là thất trụ trì, phía sau là giảng đường rộng 180m2, phía
sau nửa là nhà trai đường và khu nhà kho rộng trên 400m2;khu vực bên
phải là nhàTăng đường rộng 150m2; sau nhà Thiền đường là khu Tháp rộng
hơn 200m2, nơi an nghỉ của các vị cố Hòa thượng trụ trì chùa trước
đây.
Khu vườn
Tháp là một khuôn viên rộng hơn 2000m2, trồng rất nhiều hoa kiểng,
cây bonsai, cây ăn trái… có nhiều con đường nhỏ tráng xi măng xẻ dọc ngang, có
những ngôi nhà mát hình tròn, hình lụt giác rải rát trong khu vườn, làm chổ
dừng chân cho bà con phật tử, cho khách thập phương đến vãng cảnh chùa. Tạo nên
một không gian yên tịnh, thoáng mát, an lành.
3.
Chùa Long Quang hiện nay còn là nơi để cho các câu lạc bộ gia đình phật tử tổ
chức sinh hoạt cho thiếu nhi như:
Bên
hông phải chùa, dưới táng cây cổ thụ là một khoản sân khá rộng, hằng tuần vào
sáng ngày chủ nhật có khoảng 30, 40 cháu thiếu nhi con em của bà con phật tử
xung quanh tựu tập đến đây để : học hát, học giáo pháp và tổ chức nhiều trò vui
chơi giải trí…
Giờ sinh hoạt trò
chơi tập thể
Giờ học hát tập thể
4. Hiện nay
chùa Long Quang có hơn 1800 phật tử theo tu (có thể xem là ngôi chùa có đông
phật tử nhất ở quận Bình Thủy hiện nay). Có 5 đại đức và một Sa Di đang tu tại
chùa. Ngoài các lễ định kỳ trong năm như rằm Thượng Ngươn, Lễ Phật Đản, rằm Hạ
Ngươn kết hợp với Vu Lan báo hiếu… có 2000 đến 3000 người đến cúng viếng chùa, nhà
chùa còn tổ chức một tháng một lần ngày Thọ Bát Quan Trai cho hơn 100 phật tử
về dự học. Ngoài ra chùa còn tích cực đóng góp, tham gia nhiều lĩnh vực từ
thiện xã hội như: tiền xây dựng cầu đường, quỹ người nghèo, xây nhà tình
thương… hằng năm số tiền hơn 40 triệu đồng và phân phát 10 tấn gạo cho người
nghèo ở địa phương./.
---------------
4. Chùa Liên Trì
Phường Thới An Đông, quận Bình Thủy,
Tp.Cần Thơ
---------------
Chùa Liên Trì – còn gọi là Liên Trì Cổ Tự, có khuông viên
trên 3000m2 nằm trên một diện tích đất rộng 21.000m2, tọa
lạc tại số 10/15, tổ 9, khu vực Thới Thạnh, phường Thới An Đông, quận Bình
Thủy, thành phố Cần Thơ. Điện thoại số 0710 3886150. Hiện nay chùa thuộc hệ
phái Bắc tông, do Thượng tọa Thích Thiện Tài làm trụ trì.
Cảnh Chùa Liên Trì |
I. Lịch sử hình thành ngôi chùa.
Theo lời kể của Thượng tọa Thích
Thiện Tài trụ trì chùa và bà con phật tử trong vùng, kết hợp với nguồn tư liệu
ít ỏi của chùa. Cách đây gần 200 năm, vào đầu thế kỷ XIX, năm Nhâm Thân – 1812 (năm Gia Long thứ 11). Tại vùng đất nầy
còn rất hoang sơ, Bà con người dân tộc Kh’mer cùng với các Sư sãi dựng lên ngôi
Tự viện trên một gò đất cao, để tu học và giáo pháp theo Phật giáo truyền thống
Nam
tông Kh’mer. Ban đầu chùa còn rất đơn sơ cột cây mái lá và chưa có tên, chỉ
biết theo cách gọi truyền miệng với nhau là “Chùa ông Lục”.
Khoảng thời gian sau, vùng đất này
có nhiều người Kinh đến định cư sinh sống, người Kh’mer và các sư sãi dần dần
chuyển sang vùng kế cận, từ đó ngôi chùa nhỏ và mấy chiếc thảo am vắng lạnh
không người trông coi nhang khói. Đến năm Nhâm Ngọ - 1822 (năm Minh Mạng thứ 3), có vị Thiền sư Liễu
Thông, tự Chơn Giác thuộc dòng Thiền Lâm Tế (đời thứ 37) tình cờ vân du đến đây thấy ngôi chùa đìu hiu chạnh
lòng, Ngài vận động bà con dân làng cùng sửa sang lại, với bổn nguyện xuyễn
dương đạo pháp và thu nhận thêm nhiều vị tăng đến cùng tu học. Theo các Long vị
còn lưu lại trên bàn thờ Tổ, chúng ta thấy các Vị như: sư Liễu Huệ - tự Hoằng
Lý, sư Minh Thông - tự Hải Huệ… Lúc bấy giờ, pháp hiệu ngôi chùa do Thiên sư
Liễu Thông đặt là “ Chùa Kè Ba” (vì xung
quanh chùa có nhiều cây Kè, trong đó trước cửa chùa có một cây Kè có ba đọt). Với
ý nghĩa, lấy hình ảnh cây Kè ba đọt để biểu hiện lên ánh sáng Thiền Đăng cùng
với tiếng chuông giáo lý ngân nga, hòa mình cùng dân tộc, để an ũi xoa dịu
những nổi khổ đau của kiếp nhân thế. Tuy nhiên, khoảng thời gian này chỉ kéo
dài được mười mấy năm, do nhiều hoàn cảnh và nhiều lý do, quý Thầy lần lượt rời
chùa. Ngôi chùa vắng lạnh chỉ còn bà con phật tử trong làng thay nhau nhang
khói.
Đến năm Kỷ Dậu - 1849 (năm Tự Đức thứ 3) có Thầy du tăng pháp
danh Thiện Quả, người cao lớn mập và đen (tục
gọi ông Đạo Quạ) đến sửa sang lại ngôi chùa, thu nhận đệ tử, hành đạo và
trụ trì chùa được 9 năm, vào năm Mậu Ngọ - 1858 Thầy Thiện Quả đi hành đạo nơi
khác nên Thầy truyền trụ trì lại cho đồ đệ tên là Thầy Hai người ở Trà Cú (Trà Lòng)
pháp danh …. tiếp tục trông coi chùa được 18 năm, đến năm Bính Tý – 1876 Thầy
Hai viên tịch hưởng thọ .. tuổi. Từ đó chùa không còn người trụ trì, chỉ có bà
con trong xóm sớm hôm nhang khói. Mặc dù vậy, trong thời gian này theo truyền
miệng của dân làng địa phương “trong ao sen của chùa có chuông vàng” và qua lời
kể của cụ bà Võ Thị Giàu (bà sinh năm Mậu
Tý – 1888, mất năm Kỷ Tỵ - 1989, đại thọ 102 tuổi) là người sống ở gần
chùa: “ngày trước, Cha Mẹ bà kể là đã từng tận mắt thấy trong ao sen trước chùa
vào những ngày rằm tháng tốt, có ánh sáng hiện lên và nghe tiếng Hồng Chung
ngân nga văng vẳng”.
Mãi đến năm Canh Thìn – 1882 (năm Tự Đức thứ 36) nhờ Hồng Ân Tam Bảo
và hồng phúc của bà con phật tử làng Thới Giai, có được vị Thiền sư pháp danh
Phước Định, húy Đạt Thiền thuộc dòng Thiền Lâm Tế (đời thứ 38) về hành đạo. Thiền sư Phước Định là người Việt có thời
gian vân du tìm nơi học đạo sang tận đất nước Campuchia và tu học tại chùa Tâm
Băng, tỉnh Bát Tom Bong. Sau thời gian tu học thông hiểu giáo lý, thâm tường
học thuật, Thầy trở về nước, với bổn nguyện lợi tha, giáo hoá và cứu giúp nhân
sinh; với đạo cao đức trọng Thầy vừa truyền bá chánh pháp, vừa trị bệnh cứu
người. Từ đó, ngôi chùa được trùng tu xây cất lại khang trang, nhiều bà con tín
đồ tin tưởng quy tụ đến chùa ngày càng đông. Trong thời gian này, có nhiều
người đến nhập môn tu học xin làm đệ tử của Thiền sư và đều tu đắc đạo như các
vị: Yết Ma Phước Quang(1), Giáo Thọ Từ Quang(2), Phước
Chơn, Từ Minh… Dựa vào quang cảnh có ao
sen bên hông chùa, Thiền sư Phước Định chính thức đặt pháp hiệu cho chùa là
“Liên Trì Cổ Tự”. Với ý nghĩa: “nơi đây thanh tịnh trang nghiêm như ao sen Liên
Trì ở cõi Tây Phương cực lạc”. Dựa theo lời Phật nói trong bộ Kinh Di Đà là sự
luân chuyển của dòng đời. Vì thế, khi về trụ trì chùa Thượng tọa Thích Thiện
Tài minh họa bằng 4 câu thơ:
“Liên khai thuở nọ nơi đây
Trì trung cảnh ấy trổ đầy hoa sen
Cổ nhân ngày trước dựng lên
Tự nguồn chánh pháp chuyển nên ngôi
Chùa”
Hòa thượng Phước Định trụ trì chùa
được 29 năm thì tạ thế vào ngày 30 tháng 7 năm Tân Hợi (1911) hưởng dương 55
tuổi. Ngài ra đi để lại bao nỗi niềm thương tiếc, đau buồn cho môn đồ, bổn đạo
và bà con nhân dân trong vùng.
Sau khi Hòa thượng Phước Định về
cõi hư vô tịch tịnh, đệ từ thứ hai của Ngài là Giáo Thọ Từ Minh, húy Ngộ Thúy
kế thế trụ trì chùa Liên Trì, nối tiếp truyền trì sự nghiệp đạo pháp do Hòa
thượng Phước Định còn để lại thêm được 19 năm sau. Đến năm Canh Ngọ - 1930 do
phải chuyển tu nơi khác, Thầy Từ Minh đã trao truyền chùa cho đệ tử là Thầy
Niệm Pháp.
Trong thời gian này, nền chùa
(ngôi chánh điện) nằm sát mép rạch, bị sạt lở gần tới nền, và phần mái vách
cũng xuống cấp mục nát, nên phải dời vào bên trong cho an toàn. Mặc dù Thầy
Niệm Pháp còn rất trẻ, nhưng với tấm lòng chấn hưng đạo pháp và nguyện noi theo
chí tổ của các đức Thầy tiền nhiệm để lại, Thầy đã kêu gọi bà con dân làng và
các tín đồ phật tử cùng chung xây dựng lại ngôi chùa. Được các vị Thân hào Nhân
sỹ ở làng Giai Xuân và Thới An Đông đồng tình ủng hộ, gồm có các ông Cả Tám,
ông Kiểm Tánh, ông Hương Tham, ông Cả Thức (Nguyễn Tấn Chức), ông Bộ Bảy … đã tích cực tham gia đóng góp nhiều tiền của,
vật liệu để xây dựng mới lại ngôi Tam Bảo (cách
nền chùa cũ sát mép rạch vô khoảng 40 mét), trên nền chùa hiện nay. Đặc
biệt, trong dịp này có bà Cai Hú hỷ cúng mười công đất, và bà Ba Nho hỷ cúng
hơn một công đất (gọi là đất cây vông, vì
trên đất có một cây vông rất lớn), góp phần mở rộng diện tích đất chùa cho
đến ngày nay.
Theo lời kể của các vị bô lão, từ
năm 1930 đến đầu năm 1945 chùa Liên Trì được chấn hưng phát triển, có rất đông
đão bà con phật tử quy tụ đến chùa. Hằng năm, vào ngày rằm tháng bảy âm lịch
chùa tổ chức trai đàn rất lớn cầu an cho bá tánh, cầu siêu cho đồng bào tử nạn
cho chiến sỹ trận vong, chuẩn tế cô hồn. Trong cả 2 gian đoạn kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ xâm lược, chùa Liên Trì không chỉ là nơi tâm linh tín ngưỡng
tu hành, mà còn là chổ dựa tinh thần cho bà phật tử trong lúc hoạn nạn khó
khăn; một địa điểm nhóm họp dân làng, một cơ sở ủng hộ cách mạng; trạm trú chân
của các chiến sỹ du kích, trạm dừng chân của các đơn vị bộ đội sau này. Đặc
biệt, sau cách mạng tháng tám thành công năm 1945, thực dân Pháp trở lại xâm
lược Việt Nam
lần thứ hai. Nhiều thanh niên là phật tử của chùa tích cực hưởng ứng lời của
chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp xâm lược, đã hăng
hái tham gia vào du kích, tòng quân vào bộ đội cầm súng giết giặc cứu nước. Về
phía nhà chùa, đã hiến gần trăm cây tràm lâu đời, dùng làm cảng Phố Chùa ở Long
Tuyền để chặn tàu giặc; hiến tất cả đồ đồng trong đó có một Đại Hồng Chung cổ
kính cho công binh xưởng đúc đạn… trong những năm kháng chiến chống Mỹ xâm lược,
nhà chùa cũng tích cực tham gia các chiến dịch, nổi bật nhất là tết Mậu Thân
năm 1968, sau đó chùa cũng phải chịu sự tàn phá nặng nề của bom đạn Mỹ .
Ảnh tư liệu của cùa |
Sau 20 năm trụ trì chấn hưng chùa
Liên Trì, đến năm Canh Dần – 1950, Thầy Niệm Pháp phải chia tay với ngôi chùa
đã gắn bó với Thầy cả một thời niên thiếu để chuyển về tu hành ở chùa Long Châu
- Ô Môn. Chùa Liên Trì được Thầy Thiện Bảo tiếp tục trông coi cho đến sau năm
Mậu Thân – 1968, vì chiến tranh ác liệt Thầy Thiện Bảo cũng phải chuyển về tu ở
chùa Long Châu – Ô Môn. Tuy vậy, Thầy Thiện Bảo thường xuyên tranh thủ lui tới
chùa cũ trong những lúc không có bom pháo giặc, vận động tổ chức người trông
coi nhang khói và giữ gìn ngôi chùa của Tổ nghiệp để lại. Trong thời gian này
có: ông Tư Phùng, ông Tư Mạnh là 2 vị có thiện chí kiên trì nhất, ngoài ra còn
có các ông: Ba Gìn, Tám Hiểu, Năm Ở, Tư Đê, Hai Sện, Năm Tiều Phu… là những
người đã có công gìn giữ ngôi chùa cho đến ngày đất nước Việt Nam độc lập thống
nhất vào năm Ất Mảo - 1975.
Đến đầu năm Bính Thìn – 1976, Thầy
Thiện Bảo đã tìm và thỉnh cầu Thầy Thiện Tài về làm trụ trì chùa Liên Trì.
Thượng tọa Thích Thiện Tài – tục danh Lâm Hồng Đào, sinh ngày 14 tháng 4 năm
Giáp Thân - 1944, quê quán ở ấp Thới Hòa, xã Giai Xuân, Hậu Giang (nay là Tp.
Cần Thơ). Xuất gia năm 1963, vào chùa Lưu Âm ở xóm Sóc Vọp, quận Sa An, tỉnh
Can Đa – Campuchia tu học. Năm 1965 thọ Sa Di do Hòa thượng Phước Linh trao
giới.
Năm 1968 thọ Tỳ Kheo và tốt nghiệp
trung cấp giáo lý tại Chùa Quan Âm do Hòa thượng Từ Vân trụ trì. Năm 1970 hồi
hương về Việt Nam trở về quê quán, đến tháng 3 năm 1971 cầu pháp với Hòa thượng
Chơn Tánh và được nhập tự tu hành tại chùa Đa Phước, xã Đa Phước, huyện An Phú,
thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang. Thể theo ý nguyện của bà con phật tử và Thầy
Thiện Bảo, Tỳ Kheo Thích Thiện Tài về chùa Liên Trì, được bổ nhiệm làm trụ trì
và làm lễ nhập tự vào ngày mùng 8 tháng tư năm Bính Thìn 1976 cho đến nay. Với
thời gian hơn 35 năm tu học, toàn tâm toàn ý phụng sự phật pháp, Thầy Thích
Thiện Tài được tấn phong giới phẩm Thượng tọa vào ngày mùng 2 tháng 2 năm Mậu
Dần 1998.
Ngay từ ngày đầu về làm trụ trì
chùa, Thượng tọa Thích Thiện Tài đã bắt tay ngay vào việc sửa chữa tạm thời lại
ngôi chánh điện để thờ cúng. Đồng thời
đi vận động
bà con phật tử gần xa ủng hộ cúng dường tiền của để đến năm
2002 tiến hành xây mới lại ngôi Chánh điện có diện tích 280m2, đài
Quán Thế Âm Bồ Tát lộ thiên cao hơn 3 mét.
Chùa Liên Trì |
Tượng Quán Thế Âm phía trước chùa
|
Hai công trình này đến năm 2004
hoàn thành. Sau đó tiếp tục xây lại dãy nhà Đông lang có diện tích 234m2
chia làm nhiều phòng cho các vị chư tăng
và dãy Tây lang trên 200m2 cho các nio6 tu học; xây thêm một tịnh
thất (cóc), một nhà cốt cho phật tử, sửa chữa lại nhà khói và kho của chùa… với
tổng số tiền hơn 1 tỷ đồng. Việc hoàn thiện lát gạch và tráng xi măng sân chùa,
trồng hoa kiểng và cây xanh trong toàn bộ 3000m2 khung viên chùa, tiếp tục xây
thêm giảng đường 400m2 phía trái hướng Đông, hoàn thành vào cuối năm 2010.
Ngoài công việc của chùa, Thượng
tọa Thích Thiện Tài còn tham gia công tác xã hội và công tác phật sự của giáo
hội như: từ năm 1977 đến năm 1982 là thành viên của ban liên lạc Phật giáo yêu
nước Cần Thơ, Hậu Giang; Phó ban đại diện Phật giáo thành phố Cần Thơ - tỉnh
Hậu Giang; ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã Giai Xuân 2 nhiệm kỳ từ 1990 –
1995. Hiện nay Trưởng ban đại diện Phật giáo quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
I. Bố trí thờ cúng, các ngày lễ và công tác từ thiện xã hội của chùa
Chánh điện chùa Liên Trì hiện nay
nằm giữa một khuôn viên khá rộng, trong đợt trùng tu lại vào năm 2002 được xây mới
theo hình khối vuông bằng bê tông tường gạch, bên trên xây thêm một tầng mái
theo lối kiến trúc cổ lầu. Trước, sau và hai bên hông chùa được thiết kế có
hành lang rộng thoáng mát với kết cấu bằng 20 cột tròn đỡ mái ô quăng chung
quanh. Sáu cột phía trước gắn ba cặp liễn đối:
Cặp thứ nhất: Phật ấn nhứt thừa
vạn phái đồng lưu quy đại hải
Pháp khai tam giáo thập phương thế
giới bổn duy tâm
Cặp thứ hai: Bảo phiệt độ mê nhơn
thử giới đốn siêu hóa phương tùy hiện
Thần đăng khai ám thất tâm chơn
bất mụi vạn pháp tế chương
Cặp thứ ba: Bồ đề hương phát thiên
chơn thanh tịnh phi sắc phi không
Bát nhã hoa khai vạn phát trang
nghiêm tức tâm tức Phật.
Bên trong chùa, ngay giữa trung
tâm chánh điện, trước điện thờ là 2 cột trụ 2 bên được chạm đắp 2 con rồng quấn
từ trên xuống rất tinh xão, bên trên treo một bức hoành phi khắt nổi 4 chữ “
Vạn Đức Từ Tôn” dịch nghĩa: “người hiền muôn đức” , bên dưới là khung bao lam
chạm trổ công phu hình Long Lân Quy Phụng thếp vàng tuyệt đẹp.
Trên ban thờ an trí tượng Phật
Thích Ca Mầu Ni ngồi trên tòa sen cao hơn 2 mét, bên trái xếp tượng nhỏ Phật
đản sinh, bên phải xếp tượng Chuẩn đề Bồ Tát. Bên dưới an trí 3 pho tượng bằng
gổ: ở giữa Phật A Di Đà, bên trái Quán Thế Âm Bồ Tát, bên phải Đại Thế Chí Bồ
Tát.
Hình trên là 3 pho tượng trong 10 pho tượng Phật bằng gổ có niên đại hơn 100 năm tuổi của chùa
Ban thờ chính điện |
Hình trên là 3 pho tượng trong 10 pho tượng Phật bằng gổ có niên đại hơn 100 năm tuổi của chùa
Phía vách bên trái đặt bàn thờ
Thượng đế, ở giữa tượng Ngọc Hoàng, 2 bên có tượng Nam Tào và Bắc Đẩu; Vách bên
phải đặt bàn thờ Đức Hộ Pháp 2 bên có tượng Đức Tiêu Diện và Quan Thánh Đế
Quân.
Bàn thờ phía vách trái
|
Bàn thờ phía vách phải
|
Phía sau chánh điện là bàn thờ Hậu
Tổ. Bậc trên, ở giữa an trí tượng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát; hai bên, mỗi bên xếp
bốn long vị các cố Thiền sư, Hòa thượng trụ trì chùa Liên trì từ trước đến nay
gồm: Thiên sư Liễu Thông, Liễu Huệ, Minh Thông, Thiện Quả, Thầy Hai, Phước
Quang, Từ Quang, Phước Chơn, Từ Minh, Phước Định, Niệm Pháp… Bậc dưới, ở giữa
an trí ảnh Đức Tổ sư Đạt Ma, 2 bên xếp các bức di ảnh của các cố trụ trì chùa
và chuông, mõ.
Bàn thờ Hậu tổ
|
Hiện nay, chùa vẫn duy trì các
ngày lễ chính định kỳ như:
Lễ cầu an đầu năm – mùng 8 tháng
giêng; Lễ Thượng ngươn – rằm tháng giêng; Lễ Phật đản – rằm tháng tư; Lễ Trung
ngươn kết hợp Vu Lan báo hiếu – rằm tháng bảy; Lễ Húy kỵ cố Hòa thượng Thượng
Phước Hạ Định (Phước Định) vào ngày 30 tháng bảy và lễ Hạ ngươn – rằm tháng
mười. Những ngày này có 300 – 500 người đến lễ bái tại chùa.
Hiện nay nhà chùa vẫn duy trì tổ
chức ngày Thọ Bát Quan Trai, định kỳ vào ngày 15 và 29 hằng tháng, có 20 đến 30
phật tử tham gia.
Ngoài ra, Thượng tọa Thích Thiện Tài
trụ trì chùa Liên Trì còn tích cực tham gia công tác từ thiện xã hội ở địa
phương, hằng năm tặng 50 đến 70 phần quà Trung Thu cho trẻ em nghèo; phân phát
500 – 700 ký gạo cho người nghèo; ủng hộ hằng chục triệu đồng để góp phần xây
dựng cầu đường, xây nhà tình thương ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét